Hãy thử các từ khóa phổ biến hơn, kiểm tra chính tả hoặc thay thế các từ viết tắt bằng các từ đầy đủ.

Những quân nhân Liên Xô đầu tiên được cử sang Việt Nam

Theo tài liệu thống kê của Tổng cục Chính trị Quân đội Liên Xô hiện lưu trữ tại Văn khố Bộ Quốc phòng Nga, chỉ tính riêng từ tháng 3/1965 đến tháng 12/1974, đã có 6.359 tướng lĩnh, sĩ quan cùng hơn 4.500 hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội Liên Xô đến Việt Nam công tác. Trong đó có nhiều người đã từng kinh qua cuộc "Chiến tranh vệ quốc vĩ đại" của nhân dân Liên Xô chiến thắng phát xít Đức.

Các tướng lĩnh, sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ Liên Xô công tác ở các cơ quan cố vấn, chuyên gia về tên lửa phòng không, không quân, hải quân, đặc công, biên phòng, tác chiến điện tử, mật mã, thông tin liên lạc, kỹ thuật vũ khí - đạn, quân y, tham mưu chỉ huy, tình báo quân sự. Theo Đại tá KGB Igor Nikolayevich Morozov, đã có 16 sĩ quan, chiến sĩ Liên Xô hy sinh khi làm nhiệm vụ ở Việt Nam trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ. Hàng chục sĩ quan, chiến sĩ khác bị thương.

Những chuyên gia quân sự Liên Xô đầu tiên có mặt ở Việt Nam sau năm 1954 là các sĩ quan, chiến sĩ Biên phòng, khi đó thuộc lực lượng dã chiến NKVD (Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô).

Theo một hiệp định về hợp tác trong bảo vệ biên giới quốc gia được ký giữa Việt Nam và Liên Xô, từ năm 1957 đến năm 1961, một nhóm chuyên gia biên phòng Liên Xô do đại tá Nikita Fyodorovich Karatsupa đã được cử sang Hà Nội để huấn luyện cho lực lượng Cảnh vệ nội địa Việt Nam.

Trong nhóm huấn luyện viên Liên Xô có các chuyên gia về tác chiến vùng núi, vùng có địa hình phức tạp; chuyên gia về trinh sát truy tìm; chuyên gia về võ thuật; chuyên gia huấn luyện ngựa, sử dụng ngựa chiến; chuyên gia huấn luyện chó nghiệp vụ... Các chuyên gia Liên Xô còn tặng cho Việt Nam hơn 30 con ngựa giống Buzuluk, loại ngựa chiến hàng đầu nổi tiếng thế giới, gắn bó với truyền thống lâu đời của người Kazak sông Đông.

Sau 18 tháng miệt mài trên các thao trường, quá trình huấn luyện đã thu được kết quả hết sức tốt đẹp. Ngày 3/3/1959, lực lượng Công an Nhân dân vũ trang Việt Nam ra đời theo Quyết định số 100/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc sáp nhập lực lượng Cảnh vệ Nội địa và lực lượng Cảnh vệ Biên phòng Việt Nam.

Công an Nhân dân vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia, bảo vệ các cửa khẩu trên bộ, cảng biển, cảng hàng không cũng như cảnh vệ nội địa với lực lượng ban đầu là Trung đoàn Cảnh vệ nội địa 600, 8 tiểu đoàn biên phòng và các đồn biên phòng được bố trí trên khắp miền Bắc. Một trong các đồn biên phòng của Việt Nam thời kỳ 1959-1964 trên biên giới Việt - Lào đã được mang tên "Karatsupa".

Năm 1960, theo đề nghị của Đảng, Chính phủ Việt Nam, Đảng và Chính phủ Liên Xô đã cử sang Việt Nam một nhóm chuyên gia về hàng không do Thượng tướng  không quân Nikolai Semyonovich Skripko (sau này là Nguyên soái) giúp ngành hàng không Việt Nam xây dựng các căn cứ sân bay cùng các trạm điều hành không lưu.

Nhóm chuyên gia này đã thực hiện các chuyến bay quân sự - dân sự đầu tiên giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Vương quốc Lào. Trong nhóm chuyên gia hàng không Liên Xô còn có phi công giáo viên trực thăng Meleyev từng lái trực thăng Mi-4 số hiệu VN-51D chuyên trách đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh đi công tác trong nước. Phi công phụ là thiếu úy Trần Ngọc Bích, tốt nghiệp Trường Không quân số 2 của Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA).

Trong nhóm chuyên gia hàng không đầu tiên ấy còn có một phi công kỳ cựu và nổi tiếng khác. Đó là đại tá Sergey Alekseyevich Somov (1920-2011), Anh hùng Liên bang Nga (1996), người chuyên trách lái chính chiếc máy bay vận tải cánh quạt 2 động cơ Lisunov Li-2 mang số hiệu VN-48 chở Chủ tịch Hồ Chí Minh đi công tác ở nước ngoài.

Cũng bắt đầu từ năm 1960, các phi công Việt Nam được các chuyên gia Liên Xô đào tạo lái máy bay dân dụng Lisunov Li-2 và Ilyushin IL-14. Đến năm 1962, nhóm chuyên gia của Thượng tướng không quân N. S. Skripko còn hoàn thành việc giúp đỡ Cục Hàng không Việt Nam quy hoạch xây dựng các sân bay, trong đó có hai căn cứ không quân mới rất quan trọng ở Đa Phúc (nay là Nội Bài) và Cát Bi (Hải Phòng).

Các phi công Liên Xô và Việt Nam đã thực hiện 1.900 chuyến bay chung với tổng số giờ bay tích lũy là 4.270 giờ, vận chuyển 7.460 lượt người và 1.000 tấn hàng hóa.

Trong đó, có các chuyến bay thả dù hàng tiếp tế từ Việt Nam đến các căn cứ của Bộ đội Pathet Lào. Ngày 17/2/1961, trong khi làm nhiệm vụ bay thấp thả hàng tiếp tế cho khu căn cứ Pathet Lào tại Sầm Nưa, thượng úy không quân A. N. Solomin đã hy sinh khi máy bay bị trúng đạn bộ binh từ mặt đất bắn lên. Ông là chuyên gia quân sự đầu tiên của Quân đội Liên Xô hy sinh khi đang công tác tại Việt Nam.

Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại Trung đoàn tên lửa phòng không 238 của Quân đội Nhân dân Việt Nam (Ảnh: Wikimedia).

Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam được thành lập

Từ năm 1965, Liên Xô chủ trương tăng cường giúp đỡ về quân sự cho Việt Nam kháng chiến chống Mỹ mà trước mắt là chống cuộc chiến tranh phá hoại của Không quân và hải quân Mỹ ra miền Bắc Việt Nam. Tháng 2/1965, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã thông qua Nghị quyết № 525-200, đặt cơ sở cho việc hỗ trợ quân sự cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Cũng trong tháng 2/1965, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Aleksey Nikolaiyevich Kosygin và Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng đã ký một hiệp định liên chính phủ. Theo đó, Liên Xô cam kết viện trợ quân sự và cử chuyên gia, huấn luyện viên, nhân viên kỹ thuật hỗ trợ toàn diện cho Việt Nam trong đẩy lùi các cuộc không kích của Mỹ.

Từ năm 1965 đến năm 1972, Liên Xô đã viện trợ quân sự cho Việt Nam những vũ khí hiện đại gồm tên lửa phòng không S-75; máy bay tiêm kích MiG-17 và MiG-21; máy bay ném bom IL-28, máy bay vận tải An-2, Li-2, IL-14, IL-18,...; pháo phòng không 37mm, 57mm và 100mm; pháo mặt đất 105mm, 122mm và 130mm; xe tăng T-34, PT-76 và T-54; tàu cao tốc phóng ngư lôi, tàu quét mìn, tàu tuần tiễu ven bờ; các giàn radar cảnh giới tầm trung và tầm xa…

Theo thống kê do Bộ Quốc phòng Nga được giải mật năm 1999, từ năm 1965 đến năm 1975, Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam 513.582 tấn hàng quân sự. Trong đó, giai đoạn 1965-1972 là 370.763 tấn.

Số lượng vũ khí, phương tiện mà Liên Xô đã viện trợ trực tiếp cho Việt Nam hoặc gián tiếp (về danh nghĩa) thông qua các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ là rất lớn.

Gồm có: Súng bộ binh; Súng chống tăng; Súng cối các cỡ; Pháo không giật; Lựu pháo: 1.052 khẩu (trực tiếp 789 khẩu).; Pháo cao xạ cỡ nòng 37mm trở lên: 614 khẩu; Tên lửa phòng không SA-75: 94 bộ (mỗi bộ trang bị cho 1 tiểu đoàn) cùng 8.686 quả đạn tên lửa; Tên lửa phòng không vác vai A-72; Tên lửa phòng không S-125: 6 bộ (mỗi bộ trang bị cho 1 tiểu đoàn); Máy bay chiến đấu các loại: 316 chiếc; Tàu chiến các loại: 52 chiếc; Xe tăng các loại: 697 chiếc (trực tiếp 687 chiếc); Radar cảnh giới quốc gia: 40 bộ (trực tiếp 37 bộ) và nhiều vũ khí trang bị khác.

Bộ đội tên lửa phòng không Việt Nam huấn luyện sẵn sàng chiến đấu (Ảnh: Vũ Hoàng - Báo QĐND).

Cùng với khối lượng vũ khí, phương tiện kể trên, Liên Xô đã cử hàng vạn tướng lĩnh, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, cán bộ kỹ thuật sang làm chuyên gia huấn luyện cho bộ đội Việt Nam sử dụng các vũ khí, phương tiện đó.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá các hoạt động, nhân sự và phương tiện, Đảng và Chính phủ Liên Xô đã quyết định thành lập "Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô" làm việc thường trực ở Việt Nam theo chế độ luân phiên. Nhiệm kỳ của các thành viên trong đoàn có thể từ 9 tháng đến 3 năm tùy theo tình hình chiến sự và vị trí của nhân sự.

Những hoạt động đầu tiên của Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô ở Việt Nam là cùng phía Việt Nam tham gia khảo sát chiến trường. Đầu năm 1965, Đoàn đã tổ chức cho Nguyên soái pháo binh Liên Xô Pavel Nikolayevich Kuleshov đã dẫn đầu một nhóm sĩ quan cao cấp của Tổng cục pháo binh và tên lửa phòng không thuộc Bộ Quốc phòng Liên Xô (GRAU) tiến hành chuyến đi bí mật khắp đồng bằng Bắc Bộ, Thanh Hóa và Khu 4 cũ.

Kết quả chuyến đi thăm là các bản kiến nghị rất cụ thể về việc tăng cường trang bị cho lực lượng phòng không mặt đất của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Báo cáo tổng hợp của nhóm khảo sát đã kiến nghị trang bị tên lửa phòng không và bổ sung các loại pháo phòng không 37mm và 57mm thay thế cho các khẩu pháo phòng không chiến lợi phẩm Rheinmetall 37mm và Flak 88mm (thu được của phát xít Đức) mà Việt Nam đã dùng trong chiến dịch Điện Biên Phủ vì các nhà máy ở Liên Xô và Đông Âu đã không còn sản xuất đạn cho các loại pháo đó.

Căn cứ kết quả khảo sát, lãnh đạo Đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô cũng đề xuất một kế hoạch chi tiết để đào tạo các kíp chiến đấu của bộ đội Việt Nam sử dụng tên lửa phòng không S-75 là vũ khí phòng không thuộc loại hiện đại khi đó.

Các bạn Liên Xô đã hành động rất khẩn trương. Chỉ 30 ngày sau khi báo cáo được trình về Moskva, tháng 3/1965, Binh chủng Pháo phòng không của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nhận được hàng trăm khẩu pháo 37mm, hơn 70 khẩu pháo 57mm kèm theo các khí tài ngắm bắn quang - điện tử.

Liên Xô khẳng định, viện trợ cho Việt Nam được thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Xô Viết, tuân thủ các điều ước, hiệp ước và thông lệ quốc tế, trên tinh thần anh em, tương trợ lẫn nhau và tình cảm quốc tế vô sản sâu sắc.

Các chuyên gia tên lửa Liên Xô và bộ đội Việt Nam ở Trại Cau, Thái Nguyên (Ảnh: Tư liệu).

Nhờ những khẩu pháo này, bộ đội cao xạ phòng không Việt Nam đã đánh những trận đầu xuất sắc, bắn hạ nhiều máy bay đối phương. Các phi công thuộc Trung đoàn tiêm kích 921 Sao Đỏ của Binh chủng Không quân Nhân dân Việt Nam trẻ tuổi, ý chí kiên cường bất khuất, chỉ với các máy bay MiG-17 mới được viện trợ có tốc độ dưới tốc độ âm thanh nhưng đã bắn rơi 2 chiếc F-8U của hải quân Mỹ và 2 chiếc cường kích đa năng F-105D có tốc độ siêu âm trong các trận đánh này. Tướng không quân Mỹ William W. Momyer đã phải cay đắng xác nhận "ngày 4/4/1965 là ngày đen tối nhất của Không lực Hoa Kỳ".

Nhà nghiên cứu chính trị, Phó tiến sĩ khoa học Mikhail Antonovich Anaymanov khi sưu tập tài liệu trong kho lưu trữ của Bộ Quốc phòng Nga đã tìm thấy rất nhiều đơn, thư tình nguyện của các sĩ quan và chiến sĩ quân đội Xô Viết khi đó bày tỏ nguyện vọng muốn được sang Việt Nam công tác.

Tuy nhiên, việc chọn lọc được tiến hành rất kỹ lưỡng. Đầu tháng 2/1965, những chuyên gia và cán bộ kỹ thuật tên lửa phòng không đầu tiên được lựa chọn đã tập trung ở căn cứ của Tập đoàn quân phòng không số 4 đóng ở thành phố Sverdlovsk. Chính đơn vị này đã bắn rơi chiếc máy bay trinh sát phản lực U-2 của Mỹ xâm phạm vùng trời Liên Xô ở độ cao 20km, bắt sống trung tá phi công Mỹ Francis Power.

Các tướng lĩnh Liên Xô muốn các sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn, sĩ quan điều khiển và các kíp trắc thủ đơn vị đã qua thực chiến bằng tên lửa S-75 này truyền lại kinh nghiệm chiến đấu của họ cho những người đồng chí Việt Nam.

Việc huấn luyện cũng được thực hiện rất nghiêm túc. Các ứng viên được phổ biến những thông tin cơ bản về chiến tranh ở Việt Nam, nghiên cứu kỹ các tài liệu về đất nước và con người Việt Nam từ lịch sử, chính trị cho đến kinh tế, văn hóa cũng như đời sống, phong tục, tập quán của người Việt Nam. Họ phải trải qua nhiều vòng phỏng vấn và trắc nghiệm tâm lý rất kỹ lưỡng.

Đầu tháng 3/1965, những ứng viên được lựa chọn đã được nhận hộ chiếu công vụ. Các sĩ quan nắm giữ các thông tin tuyệt mật về vũ khí, khí tài đều phải dùng bí danh. Họ đến Việt Nam bằng tàu hỏa hoặc máy bay dưới danh nghĩa đi công tác kinh tế thương mại. Đầu tháng 3/1965, đoàn chuyên gia huấn luyện viên và kỹ thuật viên tên lửa phòng không Liên Xô do Đại tá pháo binh Aleksandr Matveyevich Dzyda đã tề tựu đông đủ tại Hà Nội.

(PLO)- Năm 2023, sản lượng xuất khẩu hồ tiêu và quế của Việt Nam đều tăng nhưng giá trị lại giảm do giá bán giảm.

Theo thống kê sơ bộ của Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam, năm 2023, Việt Nam đã xuất khẩu được hơn 264 ngàn tấn hồ tiêu các loại, chủ yếu là tiêu đen với hơn 236 ngàn tấn, còn lại là tiêu trắng.

Tổng kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu ước đạt hơn 906 triệu USD.

So với năm 2022, sản lượng xuất khẩu hồ tiêu tăng 13,8% nhưng kim ngạch giảm 8%. Lý do là giá xuất khẩu bình quân tiêu đen giảm 420 USD; tiêu trắng giảm 635 USD.

Về cơ cấu thị trường, châu Á là thị trường xuất khẩu hồ tiêu lớn nhất của Việt Nam. Trong đó đứng đầu là Trung Quốc đạt hơn 60 ngàn tấn, chiếm 22,8% và tăng 174%. Tiếp theo là các thị trường Ấn Độ với gần 13 ngàn tấn, tăng 4,2%; thị trường UAE với hơn 12 ngàn tấn, giảm 24,7%; thị trường Philippine 8 ngàn tấn, tăng 27,5%.

Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn hồ tiêu thứ hai của Việt Nam, đạt hơn 54 ngàn tấn, chiếm 20,5%, giảm 0,8% so với năm ngoái. Xuất khẩu sang các thị trường châu Âu giảm 1,4%.

Với tiêu trắng, các thị trường xuất khẩu chủ yếu là Hoa Kỳ, Đức, Trung Quốc, Hà Lan và Thái Lan.

Về nhập khẩu, năm 2023, Việt Nam đã nhập khẩu hơn 26 ngàn tấn hồ tiêu các loại, trong đó tiêu đen đạt gần 25 ngàn tấn, tiêu trắng đạt hơn 1.600 tấn. So với năm 2022 lượng nhập khẩu giảm 27,7%.

Cùng với hồ tiêu, tổng sản lượng xuất khẩu quế năm 2023 đạt hơn 89 ngàn tấn, kim ngạch 260 triệu USD, tăng 14,6% về lượng nhưng giảm 10,7% về giá trị.

Lý do là giá bình quân xuất khẩu quế trong năm 2023 đạt 2.918 USD/tấn, giảm 22,1% so với năm ngoái.

Ấn Độ là thị trường xuất khẩu chính của quế Việt Nam chiếm 42,6% đạt hơn 38 ngàn tấn, tăng 14 % so với năm trước. Tiếp theo là các thị trường Hoa Kỳ đạt hơn 10 ngàn tấn, tăng 7 %; Bangladesh đạt hơn 5.500 tấn, tăng 32%.

Năm 2023, Việt Nam đã nhập khẩu gần 15 ngàn tấn quế, kim ngạch đạt 37,6 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2022 lượng nhập khẩu giảm 28,0%.

Việt Nam nhập khẩu quế chủ yếu từ Trung Quốc và Indonesia với sản lượng lần lượt đạt 12 ngàn tấn và gần 2.000 tấn.

Trương (giản thể: 张 ; phồn thể: 張) là một họ của người Việt Nam. Họ Trương cũng có tại Trung Quốc (Zhang), Triều Tiên / Hàn Quốc (Jang), Đài Loan (Chang), và Singapore (Chong). Trong sách kỷ lục Guinness xuất bản năm 1990, Họ Trương giành kỷ lục họ nhiều người nhất thế giới. Ba họ có số người đông nhất thế giới là Trương, Lý và Vương với tỉ lệ dân số mang các họ này ở Trung Quốc là 7,9%, 7,4% và 7,1%, mỗi họ có số dân ~100 triệu người.[1]

Ở Việt Nam số người mang họ Trương chiếm tỷ lệ 2.2% dân số với khoảng hơn 2 triệu người, chủ yếu người Kinh và các dân tộc Hoa, Chăm, Thổ, Sán Dìu, Nguồn, Co.[2] Hội đồng họ Trương Việt Nam được thành lập từ năm 2006, có trụ sở làm việc tại Hà Nội và nhà thờ họ Trương Việt Nam được xây dựng tại phường Ninh Mỹ, thành phố Hoa Lư, Ninh Bình.

Theo Tính Thị Khảo Lược và Nguyên Hà Tính Toản, họ Trương thuộc dòng dõi Hoàng Đế. Người con thứ 5 là Huy sáng chế ra cây cung. Muốn bắn cung phải trương dây cung. Vì vậy, chữ Trương gồm 2 chữ Cung và Trường ghép lại. Một số cháu chắt ông Huy lấy từ Cung, số khác lấy từ Trương làm tên họ. Dòng họ Trương cư ngụ đông tại thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây.

Trong sách kỷ lục Guinness xuất bản năm 1990, Họ Trương giành kỷ lục họ có nhiều người mang nhất trên thế giới, vượt hẳn các họ Lý và Vương. Đầu năm 2006, Học viện khoa học Trung Quốc xếp họ này là họ thông dụng thứ 3 tại quốc gia đông dân nhất này. Họ Trương được sử dụng từ cách đây trên 4.000 năm.[3]

Cộng đồng những người Họ Trương Việt Nam đã thành lập Hội đồng Trương tộc lâm thời ngày 23 tháng 6 năm 2006 nhằm mục đích kết nối đồng tộc Trương trên toàn quốc để tìm kiếm thông tin dòng họ, chắp nối phả hệ và tìm về nguồn cội. Ngày 21 tháng 4 năm 2013, Đại hội Đại biểu họ Trương Việt Nam lần thứ nhất đã được tổ chức trọng thể tại Hội trường lớn của Bảo tàng Hà Nội, số 2 đường Phạm Hùng, Từ Liêm, Hà Nội. Ông Trương Văn Đoan - Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư được bầu làm Chủ tịch Hội đồng họ Trương Việt Nam.[6]

Ngày 13 tháng 11 năm 2016, Đại hội đại biểu Họ Trương Việt Nam lần thứ hai, nhiệm kỳ 2016 – 2019 được tổ chức long trọng tại Trung tâm Hội nghị tỉnh Ninh Bình. Tham dự đại hội có ông Trương Tấn Sang, nguyên Ủy viên Bộ chính trị, nguyên Chủ tịch nước Việt Nam; bà Nguyễn Thị Thanh – UVTW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, trưởng đoàn đại biểu Quốc hội Tỉnh Ninh Bình và đại diện các dòng họ: Vũ (Võ), Dương, Trần, Lê, Đỗ, Đinh, Nguyễn; Hội đồng Họ Trương thành phố Hải Phòng, Hưng Yên, Hà Nam Ninh, Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng Đại diện họ Trương các tỉnh Lâm Đồng, Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Khánh Hòa, Cần Thơ, Cà Mau, An Giang, Đồng Tháp, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Phú Thọ, Thái Nguyên...[7] Đại hội đã lựa chọn công tác nhân sự và bầu ra Ban Chấp hành mới gồm 1 chủ tịch và 12 Phó chủ tịch. Ông Trương Văn Đoan tiếp tục được bầu làm chủ tịch Hội đồng Họ Trương Việt Nam.

Nhà thờ họ Trương Việt Nam được thực hiện trên khu đất có diện tích 6.742 m2 tại làng Đa Giá, phường Ninh Mỹ, thành phố Hoa Lư, Ninh Bình, nơi gắn liền với quê hương và sự nghiệp của 2 nhân vật họ Trương tiêu biểu là Võ sư Trương Ma Ni - Tăng lục đạo sỹ thời Đinh và Danh nhân văn hóa Trương Hán Siêu thời Trần. Nhà thờ họ Trương Việt Nam với mục tiêu là một công trình lịch sử văn hóa lớn để tưởng nhớ công ơn các bậc tổ tông của dòng họ; là nơi giao lưu, gặp gỡ bà con họ Trương trong nước và ngoài nước, tổ chức những sự kiện quan trọng của dòng họ và là nơi lưu giữ các di sản văn hóa, truyền đi thông điệp của dòng họ Trương cho các thế hệ con cháu mai sau.[8]

Nhà thờ họ Trương Việt Nam là nơi thờ các danh nhân họ Trương tại ban thờ công đồng,[9] trong hậu cung có tượng thờ Ngọc Hoàng Thượng đế (Trương Hữu Nhân) và các danh nhân họ Trương tiêu biểu nhất thời phong kiến ở 3 miền Việt Nam gồm:

Ngoài ra Quần thể nhà thờ họ Trương Việt Nam cũng có ban thờ mẫu và nhiều công trình kiến trúc khác như nhà đa năng, tả vu, hữu vu, cổng tứ trụ, hồ bán nguyệt, gác trống, gác chuông được xây dựng trong 4 năm từ 2016 đến 2019.

Dưới đây là bảng thống kê chưa đầy đủ các di tích thờ người họ Trương ở Việt Nam (chưa tính tới 372 đền thờ thánh Tam Giang):